Khi nhắc đến Viễn Phương người ta nhớ ngay đến những vầng thơ trong cuộc kháng chiến chống quân Mỹ và quân Pháp. Viễn Phương là một nhà thơ tài năng của nền văn học Việt Nam. Trong bài viết này hãy cùng Văn Học tìm hiểu về cuộc đời của nhà thơ đa tài này nhé!
1. Tiểu sử của Viễn Phương
Viễn Phương sinh ra tại tỉnh An Giang ông sinh năm 1928 và mất năm 2005. Ngày còn bé Viễn Phương vẫn đi học bình thường như bao đứa trẻ khác nhưng đến thời gian Cách mạng Tháng Tám bùng nổ vào năm 1945 thì ông đầu quân và được xếp vào Chi đội 23.
Được biết Chi đội này hoạt động trên một địa bàn rất lớn thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Khi được trải nghiệm thực tế về những trận đấu gian khổ Viễn Phương hiểu rõ hơn hết những vất vả của các chiến sĩ, và rồi các bài thơ của ông cũng được ra đời từ đây. Những bài thơ ấy đã được đăng trên báo “Tiếng Súng Kháng Địch”.
Năm 1952 Viễn Phương xuất sắc đạt giải nhì của giải thưởng tổng kết văn học nghệ thuật với tác phẩm trường ca “Chiến thắng Hòa Bình”.
Năm 1954, Viễn Phương về Sài Gòn để dạy học, ông bắt đầu làm nhiều công việc để kiếm sống tuy nhiên ông vẫn duy trì niềm đam mê sáng tác thơ. Với sự đam mê cầm bút cùng với tài năng của mình Viễn Phương viết thơ, truyện đăng trên các tờ báo ở Sài Gòn.
Có giai đoạn những bài viết của Viễn Phương có nội dung chống đối nên ông bị giới cầm quyền ở Sài Gòn bắt giam, trong tù Viễn Phương vẫn không từ bỏ đam mê viết thơ, ông tiếp tục sáng tác.
Năm 1962 Viễn Phương được thả tự do, ông vào chiến trường Củ Chi để tiếp tục chiến đấu và làm thơ.
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông liền được bầu làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng Thành phố Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh và được bầu vào Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam.
Ngoài bút danh Viễn Phương, ông còn lấy bút danh ‘Đoàn Viễn’ và cũng sáng tác cả văn xuôi. Ông nổi tiếng với bài thơ ‘Viếng lăng Bác’ (Kim Son phổ nhạc) đã được đưa vào giảng dạy ở trường phổ thông. Ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.
Nhà thơ Viễn Phương mất ngày 21 tháng 12 năm 2005 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Con ông, PGS-TS Phan Thanh Bình từng là Ủy viên Trung ương Đảng – Giám đốc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Độc giả biết đến ông với hai bút danh đó là “Viễn Phương” và “Đoàn Viễn”
2. Phong cách sáng tác của Viễn Phương
Viễn Phương không chỉ cống hiến mình cho sự nghiệp cách mạng, ông còn cống hiến cho sự nghiệp nghệ thuật. Ông dành cả cuộc đời mình để sáng tác văn chương. Tâm hồn nghệ sĩ của Viễn Phương giúp ông có nhiều tác phẩm để đời. Với mong ước đóng góp cho quê hương Viễn Phương cống hiến rất nhiều cho nền văn học nước nhà.
Bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương là tác phẩm giúp ông đến gần với độc giả hơn. Bằng tất cả lòng thành kính, sự biết ơn của một người con miền Nam lần đầu ra thăm viếng Bác. Ai cũng biết rằng người cha già vĩ đại của dân tộc ta là Bác Hồ, chúng ta tự hào vì đất nước ta có một người như Bác. Bài thơ Viếng Lăng Bác mang một giọng văn rất trang nghiêm, không kém phần tình cảm.
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…
3. Tác phẩm tiêu biểu
Chiến thắng Hòa Bình (trường ca, 1952)
Anh hùng mìn gạt (truyện ký, 1968)
Mắt sáng học trò (thơ, 1970)
Nhớ lời di chúc (trường ca, 1972)
Viếng lăng Bác (thơ, 1976) In trong tập như mây mùa xuân (1978)
Như mây mùa xuân (thơ, 1978)
Quê hương địa đạo (truyện và ký, 1981)
Lòng mẹ (truyện thiếu nhi, 1982)
Sắc lụa Trữ la (truyện ngắn, 1988)
Phù sa quê mẹ (thơ, 1991)
Ngàn say mây trắng (truyện và ký, 1998)
Miền sông nước (truyện và ký, 1999)
Tháng bảy mưa ngâu (truyện và ký, 1999. Đã được dịch sang tiếng Anh)
Thơ với tuổi thơ (thơ thiếu nhi, 2002)
Gió lay hương quỳnh (thơ, 2005)
Ngôi sao xanh (truyện thiếu nhi, 2003)
Hình bóng thương yêu (ký, 2005)
4. Nhận định về Viễn Phương
Viễn Phương là một con người rất đa mang, rất nặng lòng với quá khứ, với cách mạng, quá khứ đấu tranh của dân tộc lẫn vào sâu sắc với thơ anh, với hồn anh, với đời anh. – Trần Thanh Đạm
Thơ Viễn Phương chân tình, đằm thắm, chân thực. Anh viết trong trào lưu thơ cách mạng chiến đấu nhưng bằng kinh nghiệm sống và chất tâm hồn của riêng anh. Nhiều bài thơ của anh đã nổi tiếng, trở thành bài hát được mọi người yêu mến.
Bốn khổ thơ, khổ nào cũng đầy ắp ẩn dụ, những ẩn dụ đẹp và trang nhã, thể hiện sự thăng hoa của tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người. Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một đóng góp quý báu vào kho tàng thi cả viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc – Trần Đình Sử
Thơ Viễn Phương dễ nhớ, giàu cảm xúc, nhưng không bi lụy, cường điệu nỗi đau… Thơ ông lung linh hình bóng người phụ nữ miền Nam và Mẹ. Ấn townjg nhiều mặt về người mẹ rất đậm đà, thắm thiết. Anh viết rất nhiều bài thơ về Mẹ. Người mẹ dưới gầm cầu, những người phụ nữ trong cách đề lao, người nữ chiến sỹ hy sinh trong ngọn lửa, những nữ học sinh Sài Gòn – Chợ Lớn “xuống đường” trong những “bão tố đô thành”, người vợ chiến đấu trong nội thành, chồng ở chiến khu, người mẹ đào hầm nuôi giấu cán bộ, bà mẹ đưa đường các anh bộ đội – bà mẹ ấy nói những lời rất thật, như dặn dò, như lời thề quyết tử: “Để má cầm đuốc đi trước, gặp giặc má chúc ngọn đuốc xuống, các con ở sau biết mà tránh. Nếu chúng bắn má chết, tức là chúng báo động các con. (Lời má Sáu)
Thơ Viễn Phương nền nã, thì thầm, man mác, bâng khuâng, day dứt, không gút mắt, cầu kỳ, kênh kiệu, khoa ngôn. Hình ảnh nào trong đời sống anh cũng tìm thấy chất thơ. Không đợi đến Tiếng tù và trong sương đêm, Hoa lục bình trôi man mác tím, bông lau bát ngát nắng chiều hay Chòm xanh điên diển nhuộm vàng mặt nước… Một mái lá khô hanh trong rừng vắng anh cũng đưa vào đấy cái thực, cái hư, rất thơ mà thực, rất thực mà thơ. – Mai Văn Tạo
Thơ Viễn Phương để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc và sẽ đi cùng năm tháng!