“Giăng sáng” – một kiệt tác của nhà văn Nam Cao về đề tài người trí thức Việt Nam trước Cách Mạng tháng Tám. Tác phẩm để lại cho người đọc nhiều suy ngẫm, góc nhìn về tầng lớp tiểu tư sản nghèo ngày ấy, có lẽ vì sự nghèo túng, hoàn cảnh sống khắc nghiệt mà những ước mơ của nhiều người đành phải gạt qua một bên.
Nam Cao – ngòi bút hiện thực cuộc sống
Nhắc đến Văn học Việt Nam người ta không thể không thể nhắc đến cái tên Nam Cao, một nhà văn tài hoa. Và chắc chắn rằng người yêu thích dòng sách Văn học Việt Nam chưa ai là chưa từng đọc một tác phẩm của Nam Cao. Bởi ông luôn có một lối đi riêng trong cách viết của mình, ông để lại cho người đọc nhiều chiêm nghiệm về cuộc sống. Viết sự thật, viết về người nghèo, người yếu thế trong xã hội và dành thật nhiều tình cảm, tôn vinh cái đẹp. Cả cuộc đời của Nam Cao dành trọn cho sự nghiệp cầm bút, với khối lượng tác phẩm đồ sộ mà ông để lại chúng ta đều cảm nhận được sự nhiệt huyết của nhà văn này!
Nam Cao được biết đến là một trong những nhà văn hiện thực nổi tiếng tại Việt Nam. Ông tên thật là Trần Hữu Tri, ông xuất thân từ một gia đình Công giáo ở nông thôn. Bố mẹ Nam Cao cho ông theo học đến nơi đến chốn và sau này Nam Cao đã kiếm sống bằng rất nhiều nghề, trong đó có nghề thầy thuốc, dạy học, viết báo.
Hiện thực cuộc sống vô cùng khắc nghiệt, chính vì thế ban đầu Nam Cao quyết định dấn thân vào con đường cầm bút chỉ vì một lý do duy nhất đó là mưu sinh. Tuy nhiên sau khi có hai tác phẩm là Hai cái xác và Cảnh cuối cùng được đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy, sự nghiệp cầm bút của Nam Cao.
Cho đến năm 1941, khi tác phẩm Đôi lứa xứng đôi được ra đời đây được xem là cột mốc quan trọng trong sự nghiệp văn chương của nhà văn Nam Cao. Sau này tác phẩm được đổi tên thành Chí Phèo khi được đi in. Cho đến ngày nay, tác phẩm Chí Phèo đã để lại trong lòng bạn đọc nhiều cảm xúc khác nhau. Và từ “Chí Phèo” trở thành ngôn ngữ hàng ngày trong cuộc sống của chúng ta, cứ nhắc đến ai nát rượu người ta sẽ gắn cho họ cái mác “chí phèo”
Giăng sáng cũng được xem là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nam Cao được ông viết trước Cách mạng tháng Tám về những nhà văn nghèo, họ phải sống, phải mưu sinh và gánh vác trên mình những trọng trách cao cả….
Điền – người nghệ sĩ đam mê nghệ thuật thực thụ
Điền là một nhà văn nghèo, cuộc đời của anh cũng may mắn vì được bố mẹ cho ăn học đến nơi đến chốn. Tuy nhiên nghề cầm bút nó bạc lắm, làm mãi làm mãi cũng chẳng thể khấm khá lên nổi. Thế nhưng dù hoàn cảnh khắc nghiệt là thế, Điền vẫn đam mê với con chữ, anh tin tưởng vào bản thân mình.
Điền rất yêu trăng, với anh trăng là nguồn cảm hứng bất tận để anh cầm bút, sự thơ thẩn, lãng mạn của Điền luôn khiến cho dòng chảy văn hóa trong đầu anh tuôn trào. “Có đọc văn thơ, mới biết trăng là một cái đẹp và quý lắm. Trăng là cái liềm vàng giữa đống sao. Trăng là cái đĩa bạc trên tấm thảm nhung da trời. Trăng tỏa mộng xuống trần gian. Trăng tuôn suối mát để những hồn khát khao ngụp lặn. Trăng, ơi trăng!”
Điền mơ mộng về văn chương. Một thời, Điền chăm chỉ đọc sách, viết văn và anh cam chịu những thiệt thòi, thiếu thốn khi trở thành nhà văn thực thụ. Điền vẫn thường bảo với một người bạn cùng chí hướng: Điền sẵn lòng từ chối một chỗ làm kiếm mỗi tháng hàng trăm bạc, nếu có thể kiếm được năm đồng bạc về nghề văn….
Thực tế cuộc sống nào cho Điền toại nguyện, rồi giấc mơ cũng tan biến khi bốn chữ “cơm, áo, gạo, tiền” đè lên vai. Vợ Điền là một người rất yêu thương chồng, nhưng Thị chỉ biết rằng người ta cần ăn cơm, mặc áo và uống thuốc khi đau ốm. Thị chỉ cố lo cho chồng ba thức ấy. Thị nhịn ăn để chồng ăn. Thị nhịn mặc cho chồng mặc. Thậm chí Thị còn bán cả yếm, áo để lo thuốc thang cho chồng.
“Điền tin rằng: cái học thức của Điền tuy chẳng giúp Điền kiếm nổi miếng ăn, nhưng cũng có ích cho Điền nhiều lắm. Chỉ nói một cái nhờ nó mà Điền đọc nổi văn thơ, và nhờ văn thơ mà hiểu được cái đẹp của gió, của trăng. Và Điền rất phàn nàn cho những tâm hồn cằn cỗi như tâm hồn của vợ Điền.”
Hiện thực khiến con người ta tỉnh mộng
Ngồi trong ngôi nhà nhỏ chật hẹp của hai vợ chồng, nghe tiếng con khóc, tiếng vợ quát nạt mình. Hiện thực vẫn luôn là hiện thực, cơm áo gạo tiền luôn là thứ mà người trưởng thành phải đặt lên hàng đầu. Rồi anh nghĩ về hình ảnh những người đàn bà có nhan sắc, xinh đẹp, quyến rũ, anh muốn bỏ vợ con để đi tìm những thứ hào nhoáng, xa hoa ấy… và rồi suy nghĩ ấy tồn tại chưa được lâu thì hiện thực đã kéo anh trở lại.
Điền chính là đại diện cho hình ảnh người trí thức tiểu tư sản của thời ấy, họ đều rơi vào hoàn cảnh bế tắc như vậy. Điều này thể hiện sự xung đột sâu sắc của niềm đam mê và một bên là gánh nặng cơm áo gạo tiền.
Trích đoạn Giăng sáng
Điền không thể sung sướng khi con Điền còn khổ. Chao ôi! Trăng đẹp lắm! Trăng dịu dàng và trong trẻo và bình tĩnh. Nhưng trong những căn lều nát mà trăng làm cho con cái bề ngoài trông cũng đẹp, biết bao người quằn quại, nức nở, nhăn nhó với những đau thương của kiếp mình! Biết bao tiếng nghiến răng và chửi rủa! Biết bao cực khổ và lầm than?… Không, không. Điền không thể nào mơ mộng được. Cái sự thật tàn nhẫn luôn luôn bày ra đấy. Sự thực giết chết những ước mơ lãng mạn gieo trong đầu óc Điền cái thứ văn chương của bọn quá nhàn rỗi. Điền muốn tránh sự thực, nhưng trốn tránh làm sao được? Vợ Điền khổ, con Điền khổ, cha mẹ Điền khổ. Chính Điền cũng khổ. Bao nhiêu người nữa, cùng một cảnh, khổ như Điền! Cái khổ làm héo một phần lớn những tính tình tươi đẹp của người ta. Tiếng đau khổ vang dội lên mạnh mẽ. Chao ôi! Chao ôi! Nghệ thuật từ những kiếp lầm than, vang dội lên mạnh mẽ trong lòng Điền. Điền chẳng cần đi đâu cả. Điền chẳng cần trốn tránh, Điền cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời.
Lời kết
Nam Cao chính là người một người nghệ sĩ tài hoa khi ông phát họa rất chân thật hình ảnh của một nhà văn bị chính hiện thực vùi dập một cách mạnh mẽ. Dù văn chương có đẹp đến mấy, văn chương có lãng mạn bao nhiêu đi chăng nữa thì nó cần phải nói lên sự thật!