Học Ngữ VănNgữ văn THPTTác giả - Tác phẩm

Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Tản Đà

854

Tản Đà là một trong những nhà thơ của thời đại, ông có sức ảnh hưởng rất lớn với những bài thơ “ngông”. Văn chương chính là sáng tạo và người viết cũng giống như một người nghệ sĩ thực thụ vậy. Hôm nay hãy cùng Văn Học tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Tản Đà trong bài viết dưới đây nhé!

Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Tản Đà

1. Tiểu sử của nhà thơ Tản Đà

Tản Đà sinh năm 1989 và mất năm 1939, tên thật của ông là Nguyễn Khắc Hiếu. Ông được biết đến là nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng của Việt Nam. Bút danh Tản Đà của ông có ý nghĩa rất đặc biệt nó được ghép từ núi Tản Viên và sông Đà tại quê hương ông. Có thể thấy được tinh thần yêu quê hương của Tản Đà vô cùng lớn.

Văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ 20 có rất nhiều cái tên nhà văn nổi lên như một hiện tượng. Một trong số đó có Tản Đà, ông là một cây bút tài năng, với tinh thần đi để trải nghiệm Tản Đà đã đi rất nhiều nơi trên đất nước Việt Nam để sáng tác những tác phẩm gần gũi với độc giả. Khác với nhiều nhà văn, nhà thơ cùng thời trong sáng tác của Tản Đà luôn có sự “ngông” nhất định.

Tuổi thơ của Tản Đà vô cùng vất vả khi ông vừa lên 3 tuổi bố mất, gia đình lâm vào cảnh nghèo túng.

Từ nhỏ đã được tiếp xúc với Nho giáo chính vì thế khả năng văn chương của Tản Đà cũng vô cùng xuất sắc.

Tiểu sử của nhà thơ Tản Đà

Giai đoạn Tản Đà ở tuổi niên thiếu ông đa số dành thời gian cho chuyện thi cử, vậy nên đến năm 19 tuổi Tản Đà mới bắt đầu thầm thương trộm nhớ một người, mối tình với con gái nhà tư sản Đỗ Thận, sang năm sau đó ông lại yêu con gái huyện phủ Vĩnh Tường thế nhưng hai mối tình này đều không có kết thúc đẹp.

Năm 1909, Tản Đà tham gia kỳ thi hương ở Nam Định, tuy nhiên chưa có nhiều sự chuẩn bị chính vì thế ông đã trượt kỳ thi này. Sau đó ông về nhà để ôn tập, trong thời gian này Tản Đà rơi vào lưới tình của một cô gái ở phố hàng Bồ. Nói về mối tình này, trong cuốn “Giấc mộng con”, Tản Đà viết như sau: “Ở phố Hàng Bồ số nhà hơn hai mươi về dãy bên lẻ có một người con gái ngồi bán tạp hóa, không biết có phải là tuyệt sắc hay không mà tự con mắt mình khi bấy giờ thì như ngoài người ấy không còn ai là con gái.” Ông thể hiện sự si tình của mình đối với cô gái ấy. Tuy nhiên cuộc sống trái ngang, nhà ông không có điều kiện nên lấy đâu ra tiền để hỏi cưới nàng, ông đành nuôi hy vọng bằng việc sẽ tiếp tục thi khoa cử. Tuy nhiên sau đó Tản Đà liên tục thi trượt các cuộc thi. Chuyện tình cũng nát tan khi nàng đi lấy chồng. Ông khá chán nản và bỏ về Hòa Bình. Ở giai đoạn này Tản Đà sáng tác được rất nhiều tác phẩm để đời.

Năm 1915 Tản Đà cưới vợ là bà Nguyễn Thị Tùng. Đến năm 1916, Tản Đà bước vào con đường trở thành một nhà văn, nhà báo chuyên nghiệp.

2. Phong cách sáng tác của nhà thơ Tản Đà

Nhắc đến Tản Đà người ta sẽ nghĩ ngay đến cái ngông trong văn chương của ông, đây được xem là điểm nhấn trong văn chương của Tản Đà. Thế nhưng cũng rất nhiều người thắc mắc tại sao ông lại thể hiện cái ngông ấy trong văn chương? Bởi vì Tản Đà sống trong thời kỳ đất nước đang loạn lạc, nhiều người rơi vào cuộc sống khó khăn, trong xã hội đầy rẫy những bất công chính vì thế không ít người bất mãn trước thời cuộc.

Khi cuộc sống không diễn ra như cách mình mong muốn, chúng ta cảm thấy chán nản, mệt mỏi và rồi phải ngông với chính thời cuộc. Thái độ sống của một người tài năng, và cảm thấy chán nản trước mọi thứ nên Tản Đà có một cuộc sống vô cùng tự do!

Tên tuổi của Tản Đà được nhiều người biết đến bởi văn chương của ông lãng mạn, câu từ bay bổng, cách diễn đạt vừa phóng khoáng lại ngông nghênh khiến người ta cảm thấy vô cùng thú vị. Chúng ta có thể nói văn thơ của Tản Đà giống như một gạch nối giữa hai thời trung đại và hiện đại của Văn học Việt Nam.

Khác với nhiều nhà văn cùng thời, Tản Đà có lối đi riêng, văn thơ của ông luôn tạo cảm giác đặc biệt cho người đọc. Bởi văn chương cần sự sáng tạo chính vì thế sự độc đáo trong câu từ luôn là điều mà độc giả quan tâm đến. Là một người cầm bút, các nhà văn nhà thơ phải không ngừng sáng tạo.

“Chơi văn ngâm chán, lại chơi giăng

Ra sân cùng bóng đi tung tăng

Trên trời bống thấy hai cô xuống

 

Miệng cười mủm mỉm cùng nói rằng:

“Giời nghe hạ giới ai ngâm nga

Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà

Làm Giời mất ngủ, Giời đương mắng.”

Bài thơ Hầu trời của Tản Đà tạo nên tiếng vang lớn, câu chữ được đầu tư rất chỉn chu. Bài thơ khiến người đọc phải mất rất nhiều thời gian để suy ngẫm. Với Tản Đà văn chương luôn cần sự sáng tạo chính vì thế mỗi một tác phẩm của ông đều rất độc lạ và mang đến cho người ta cảm giác mới mẻ. Cái ngông của Tản Đà khiến bạn đọc phải thán phục trước tài năng sáng tác của nhà thơ.

Phong cách sáng tác của nhà thơ Tản Đà

3. Tác phẩm tiêu biểu

Thơ Tản Đà, Còn chơi, Tản Đà xuân sắc, Giấc mộng con I, Khối tình, Thần tiên, Đài gương, Lên sáu, Lên tám, Thề non nước, Trần ai tri kỷ, Tản Đà nhàn tưởng, Quốc sử huấn mông, Tây Thi, Tống biệt, Tàn Đà văn tập, Truyện thế gian II, Người cá, Thiên Thai,…

4. Nhận định về Tản Đà

Ông ra đời đem cho chúng ta một thi sĩ thành thực dám ca hát cái đời sống của lòng; ông đã mơ mộng, đã chán đời, yêu đời, thiết tha với đời một cách tự do, ông đã dám ngông, dám có một bản ngã, dám công nhân để cho cái trữ tình mê man của mình rải trong văn thơ. Ông đã sống một đời thi sĩ và đã có một tâm hồn thi sĩ. – Nhà phê bình văn học Lê Thanh

Tôi đã nghĩ đi nghĩ lại. Trong cái trang Thi sĩ của cuốn Việt Nam văn học sử này, dẫu sao mặc lòng, ông Tản Đà vẫn là một người đứng đầu của thời đại này. – Ngô Tất Tố: Tản Đà ở Nam Kỳ, Tao Đàn 1939.

Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Tản Đà là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám giữ một cái tôi – Xuân Diệu.

Trong chốn Tao Đàn, Tản Đà xứng đáng ngôi chủ súy, trong Hội tài tình, Tản Đà xứng đáng ngôi hội chủ mà làng văn báo xứ này, ai dám ngồi chung một chiếu với Tản Đà? – Nguyễn Tuân

Lời kết

VanHoc.Net hy vọng bài viết này sẽ giúp bạn có thêm nhiều thông tin, và hiểu thêm về phong cách sáng tác của nhà thơ Tản Đà. Chúc bạn có kết quả học tập tốt và đừng quên hãy tiếp tục ủng hộ chúng tôi trong những bài viết tiếp theo nhé.

Học Ngữ VănNgữ văn THPTTác giả - Tác phẩm

Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân

833

Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn nổi tiếng Việt Nam với sở trường tùy bút và kí. Sự tài hoa của ông được thể hiện qua nhiều tác phẩm khác nhau, nhận được sự yêu mến từ độc giả. Hiện nay tại Hà Nội có một con đường mang tên Nguyễn Tuân.

Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân

1. Tiểu sử về Nguyễn Tuân

Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 tại Hà Nội. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình Nho giáo.

Con đường học hành của Nguyễn Tuân không được thuận lợi, ông bị đuổi học khi học Trung học cơ sở vì tham gia một cuộc bãi khóa phản đối giáo viên người Pháp nói xấu người Việt được diễn ra vào năm 1929. Không lâu sau đó, ông bị đi tù vì khi đi đến biên giới Thái Lan mà không được có giấy cấp phép. Sau khi ra tù, sự nghiệp cầm bút của ông bắt đầu từ đây.

25 tuổi bắt đầu cho sự nghiệp sáng tác văn chương của mình, ông chật vật trong nghề khoảng 2,3 năm thì đến năm 1938 Nguyễn Tuân bắt đầu được nhiều độc giả biết đến thông qua các tác phẩm để đời như Vang bóng một thời, Những chuyến đi.

Năm 1941 Nguyễn Tuân bị bắt giam và chính nhờ sự kiện này giúp ông một lần nữa được gặp gỡ những người hoạt động chính trị.

Tiểu sử về Nguyễn Tuân

Năm 1945, Nguyễn Tuân tham gia rất sôi nổi các hoạt động văn chương và nghệ thuật.

Năm 1948 đến 1957 Nguyễn Tuân là Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam.

Phong cách sống của Nguyễn Tuân chính là ông thích đi nhiều nơi để khám phá, để học hỏi và trau dồi vốn hiểu biết của mình, chứ ông không thích bản thân chỉ ngồi một chỗ và sống một cuộc đời quá lặng lẽ. Vậy nên suốt cuộc đời của Nguyễn Tuân, ông dành rất nhiều thời gian để đi và sau những chuyến đi ấy ông lại có các tác phẩm để đời.

Nguyễn Tuân mất vào ngày 28 tháng 7 năm 1987 với sự tiếc nuối của rất nhiều độc giả, người thân và gia đình ông.

“Nguyễn Tuân xuất hiện trên văn đàn Việt Nam đã tạo được ấn tượng ngay từ đầu bởi sự độc điệu. Độc điệu ở thể văn – tùy bút. Độc điệu ở giọng văn – phóng túng. Độc điệu ở chất văn – ngông ngang. Độc điều ở tình văn – hoài niệm. Độc điệu ở ý văn – duy mỹ.”

2. Phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân

Trước cách mạng tháng Tám: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện qua góc nhìn yêu cái đẹp, suốt đời đi tìm cái đẹp và thể hiện qua từ “Ngông”.

Sau cách mạng tháng Tám sáng tác của Nguyễn Tuân đã có sự thay đổi, đó là các tác phẩm của ông có thêm sự hiện đại và trẻ trung. Người nghệ sĩ tài năng như Nguyễn Tuân luôn hướng về bài học sâu sắc trong mỗi tác phẩm.

Phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân

3. Tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân

Một chuyến đi, Ngọn đèn dầu lạc, Vang bóng một thời, Tùy bút, Đường vui, Đi thăm Trung Hoa, Tùy bút kháng chiến, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, Cô Tô, Truyện một cái thuyền đất, Thắng càn, Chú giao làng Seo, Yêu ngôn, Cảnh sắc và hương vị đất nước, Tùy bút kháng chiến hòa bình, Tình chiến dịch, Tùy bút II, Thiếu quê hương,…

Trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân có rất nhiều tác phẩm gây được tiếng vang với đời, trong đó có truyện ngắn Chữ người tử tù. Tác phẩm kể về Huấn Cao là người nghệ sĩ tài năng, tài hoa, mặc dù trong hoàn cảnh khốn cùng nhất nhưng ông vẫn toát lên khí chất của một người nghệ sĩ. Nơi ngục tù tối tăm cái đẹp vẫn được hiện lên. Tác phẩm để lại cho người đọc nhiều suy ngẫm về cuộc sống và con người.

Hay tác phẩm Người lái đò sông Đà được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 12, tác phẩm có trong chương trình ôn thi Đại học và đã nhiều năm vào đề thi Đại học môn Ngữ văn của học sinh. Người lái đò sông Đà đã làm nổi bật được vẻ đẹp của sông Đà. Dưới góc nhìn của một người nghệ sĩ tài hoa, tác phẩm khiến nhiều người đọc phải xao xuyến. Tác giả muốn chúng ta phải yêu quê hương, yêu đất nước thông qua hình ảnh sông Đà ấy.

“Cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một. Nhìn cái thiên nhiên ấy, có những lúc thấy nó không “thơ đời Đường” nhàn hạ, mà thấy nó chính là một cuộc đấu tranh với thiên nhiên để giành sự sống từ tay nó về tay mình. Tôi xin ghi ở đoạn này hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường Sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận Sông Đà.”

Nguyễn Tuân dành cả cuộc đời để đi tìm cái đẹp và sự thật. Văn chương cần sự đổi mới, sáng tạo vậy nên Nguyễn Tuân luôn dành thời gian để trau chốt con chữ của mình.

4. Nhận định về Nguyễn Tuân

Hạt nhân của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một chữ ngông. Cái ngôn vừa có màu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hòa bất đắc chí của những nhà văn khác như Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà,… và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh nhà văn; vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi loạn của xã hội tư sản phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con người cao đẳng, thuyết hiện. – Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh

Đọc Người lái đò sông Đà, ta ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đáng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ. Khi gân guốc, khi mềm mại, khi nghiêm nghị như một nhà bác học, khi hồn nhiên như một đứa trẻ thơ, những trang viết, những câu văn của Nguyễn Tuân mang hơi thở ấm nóng của cuộc đời phức tạp, phong phú, đa dạng. Sự tự ý thức sâu sắc về tài năng của mình không phải là một biểu hiện tiêu cực, trái lại, nó tạo nên sự giải phóng năng lượng rất cần thiết để nhà văn có thể sáng tạo nên những tác phẩm kì vĩ. – Phan Huy Đông

Nhận định về Nguyễn Tuân

Nguyễn Tuân là một nhà văn cả đời đi tìm kiếm cái thực và cái đẹp. Thực ra, sự thực và cái đẹp của cuộc sống là hai đích mà dường như bất kì ngòi bút chân chính nào cũng hướng tới nhưng không dễ chiếm lĩnh và chạm vào được. Nguyễn Tuân cũng trên hành trình tìm kiếm những tác phẩm của ông đã chạm được đến cái đẹp, nhất là cái đẹp truyền thống và cái đẹp phồn hoa chốn thành thị. Nguyễn Tuân là người thưởng thức cái đẹp với tư cách là người có văn hóa, có vốn tri thức, biết giá trị của đối tượng mình chiêm ngưỡng. – Nguyễn Đình Thi

Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, mặc dù những tác phẩm của ông đã đi qua lớp bụi của thời gian thế nhưng độc giả vẫn luôn yêu quý và dành cho ông những lời nói “có cánh” khi nhắc đến Nguyễn Tuân, những tác phẩm vượt thời gian của ông.

Cảm ơn bạn đọc đã luôn quan tâm, theo dõi đến các bài viết của VanHoc.Net. Hy vọng trong thời gian tới chúng tôi vẫn sẽ nhận được sự quan tâm, theo dõi từ các bạn!

Học Ngữ VănNgữ văn THCSTác giả - Tác phẩm

Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Viễn Phương

898

Khi nhắc đến Viễn Phương người ta nhớ ngay đến những vầng thơ trong cuộc kháng chiến chống quân Mỹ và quân Pháp. Viễn Phương là một nhà thơ tài năng của nền văn học Việt Nam. Trong bài viết này hãy cùng Văn Học tìm hiểu về cuộc đời của nhà thơ đa tài này nhé!

Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Viễn Phương

1. Tiểu sử của Viễn Phương

Viễn Phương sinh ra tại tỉnh An Giang ông sinh năm 1928 và mất năm 2005. Ngày còn bé Viễn Phương vẫn đi học bình thường như bao đứa trẻ khác nhưng đến thời gian Cách mạng Tháng Tám bùng nổ vào năm 1945 thì ông đầu quân và được xếp vào Chi đội 23.

Được biết Chi đội này hoạt động trên một địa bàn rất lớn thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Khi được trải nghiệm thực tế về những trận đấu gian khổ Viễn Phương hiểu rõ hơn hết những vất vả của các chiến sĩ, và rồi các bài thơ của ông cũng được ra đời từ đây. Những bài thơ ấy đã được đăng trên báo “Tiếng Súng Kháng Địch”.

Năm 1952 Viễn Phương xuất sắc đạt giải nhì của giải thưởng tổng kết văn học nghệ thuật với tác phẩm trường ca “Chiến thắng Hòa Bình”.

Năm 1954, Viễn Phương về Sài Gòn để dạy học, ông bắt đầu làm nhiều công việc để kiếm sống tuy nhiên ông vẫn duy trì niềm đam mê sáng tác thơ. Với sự đam mê cầm bút cùng với tài năng của mình Viễn Phương viết thơ, truyện đăng trên các tờ báo ở Sài Gòn.

Có giai đoạn những bài viết của Viễn Phương có nội dung chống đối nên ông bị giới cầm quyền ở Sài Gòn bắt giam, trong tù Viễn Phương vẫn không từ bỏ đam mê viết thơ, ông tiếp tục sáng tác.

Năm 1962 Viễn Phương được thả tự do, ông vào chiến trường Củ Chi để tiếp tục chiến đấu và làm thơ.

Tiểu sử của Viễn Phương

Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông liền được bầu làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng Thành phố Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh và được bầu vào Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam.

Ngoài bút danh Viễn Phương, ông còn lấy bút danh ‘Đoàn Viễn’ và cũng sáng tác cả văn xuôi. Ông nổi tiếng với bài thơ ‘Viếng lăng Bác’ (Kim Son phổ nhạc) đã được đưa vào giảng dạy ở trường phổ thông. Ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.

Nhà thơ Viễn Phương mất ngày 21 tháng 12 năm 2005 tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Con ông, PGS-TS Phan Thanh Bình từng là Ủy viên Trung ương Đảng – Giám đốc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

Độc giả biết đến ông với hai bút danh đó là “Viễn Phương” và “Đoàn Viễn”

2. Phong cách sáng tác của Viễn Phương 

Viễn Phương không chỉ cống hiến mình cho sự nghiệp cách mạng, ông còn cống hiến cho sự nghiệp nghệ thuật. Ông dành cả cuộc đời mình để sáng tác văn chương. Tâm hồn nghệ sĩ của Viễn Phương giúp ông có nhiều tác phẩm để đời. Với mong ước đóng góp cho quê hương Viễn Phương cống hiến rất nhiều cho nền văn học nước nhà.

Bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương là tác phẩm giúp ông đến gần với độc giả hơn. Bằng tất cả lòng thành kính, sự biết ơn của một người con miền Nam lần đầu ra thăm viếng Bác. Ai cũng biết rằng người cha già vĩ đại của dân tộc ta là Bác Hồ, chúng ta tự hào vì đất nước ta có một người như Bác. Bài thơ Viếng Lăng Bác mang một giọng văn rất trang nghiêm, không kém phần tình cảm.

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.

 

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…

 

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim.

 

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…

Phong cách sáng tác của Viễn Phương 

3. Tác phẩm tiêu biểu

Chiến thắng Hòa Bình (trường ca, 1952)

Anh hùng mìn gạt (truyện ký, 1968)

Mắt sáng học trò (thơ, 1970)

Nhớ lời di chúc (trường ca, 1972)

Viếng lăng Bác (thơ, 1976) In trong tập như mây mùa xuân (1978)

Như mây mùa xuân (thơ, 1978)

Quê hương địa đạo (truyện và ký, 1981)

Lòng mẹ (truyện thiếu nhi, 1982)

Sắc lụa Trữ la (truyện ngắn, 1988)

Phù sa quê mẹ (thơ, 1991)

Ngàn say mây trắng (truyện và ký, 1998)

Miền sông nước (truyện và ký, 1999)

Tháng bảy mưa ngâu (truyện và ký, 1999. Đã được dịch sang tiếng Anh)

Thơ với tuổi thơ (thơ thiếu nhi, 2002)

Gió lay hương quỳnh (thơ, 2005)

Ngôi sao xanh (truyện thiếu nhi, 2003)

Hình bóng thương yêu (ký, 2005)

4. Nhận định về Viễn Phương

Viễn Phương là một con người rất đa mang, rất nặng lòng với quá khứ, với cách mạng, quá khứ đấu tranh của dân tộc lẫn vào sâu sắc với thơ anh, với hồn anh, với đời anh. – Trần Thanh Đạm

Thơ Viễn Phương chân tình, đằm thắm, chân thực. Anh viết trong trào lưu thơ cách mạng chiến đấu nhưng bằng kinh nghiệm sống và chất tâm hồn của riêng anh. Nhiều bài thơ của anh đã nổi tiếng, trở thành bài hát được mọi người yêu mến.

Bốn khổ thơ, khổ nào cũng đầy ắp ẩn dụ, những ẩn dụ đẹp và trang nhã, thể hiện sự thăng hoa của tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người. Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một đóng góp quý báu vào kho tàng thi cả viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc – Trần Đình Sử

Thơ Viễn Phương dễ nhớ, giàu cảm xúc, nhưng không bi lụy, cường điệu nỗi đau… Thơ ông lung linh hình bóng người phụ nữ miền Nam và Mẹ. Ấn townjg nhiều mặt về người mẹ rất đậm đà, thắm thiết. Anh viết rất nhiều bài thơ về Mẹ. Người mẹ dưới gầm cầu, những người phụ nữ trong cách đề lao, người nữ chiến sỹ hy sinh trong ngọn lửa, những nữ học sinh Sài Gòn – Chợ Lớn “xuống đường” trong những “bão tố đô thành”, người vợ chiến đấu trong nội thành, chồng ở chiến khu, người mẹ đào hầm nuôi giấu cán bộ, bà mẹ đưa đường các anh bộ đội – bà mẹ ấy nói những lời rất thật, như dặn dò, như lời thề quyết tử: “Để má cầm đuốc đi trước, gặp giặc má chúc ngọn đuốc xuống, các con ở sau biết mà tránh. Nếu chúng bắn má chết, tức là chúng báo động các con. (Lời má Sáu)

Thơ Viễn Phương nền nã, thì thầm, man mác, bâng khuâng, day dứt, không gút mắt, cầu kỳ, kênh kiệu, khoa ngôn. Hình ảnh nào trong đời sống anh cũng tìm thấy chất thơ. Không đợi đến Tiếng tù và trong sương đêm, Hoa lục bình trôi man mác tím, bông lau bát ngát nắng chiều hay Chòm xanh điên diển nhuộm vàng mặt nước… Một mái lá khô hanh trong rừng vắng anh cũng đưa vào đấy cái thực, cái hư, rất thơ mà thực, rất thực mà thơ. – Mai Văn Tạo

Thơ Viễn Phương để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc và sẽ đi cùng năm tháng!

Học Ngữ VănNgữ văn THPTTác giả - Tác phẩm

Gió lạnh đầu mùa và sự tinh tế của nhà văn Thạch Lam

922

“Gió lạnh đầu mùa” là tuyển tập truyện ngắn của Thạch Lam. Các nhân vật được xây dựng trong truyện là những người nông dân, lao động nghèo. Mỗi một câu chuyện sẽ giúp độc giả hình dung được nỗi khổ của người nghèo. Vì cái nghèo mà họ phải làm việc bất chấp, họ sống trong cái nghèo mãi chẳng thể ngóc đầu lên nỗi. Thế nhưng sống trong cái nghèo mà những người lao động vẫn giữ được tâm hồn thiện lượng.

Gió lạnh đầu mùa và sự tinh tế của nhà văn Thạch Lam

Đôi nét về Thạch Lam

Thạch Lam sinh năm 1910 và mất vào năm 1942 vì bệnh lao, ông mất tại Hà Nội khiến bao người thương xót cho một tài năng văn chương.

Cuộc đời tuy ngắn ngủi nhưng Thạch Lam sáng tác được rất nhiều tác phẩm để đời như Gió lạnh đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc, Ngày mới, Hà Nội băm sáu phố phường.

Văn của Thạch Lam nhẹ nhàng, sâu lắng, cốt truyện đơn giản nhưng lại khiến cho người đọc khó mà quên được. Chủ đề ông thường hướng đến đó là những người nông dân nghèo trong xã hội, ông dành cho họ sự đồng cảm.

Sinh thời, nhà văn Nhất Linh và rất nhiều người có chuyên môn trong nghề đánh giá rằng văn của Thạch Lam viết hay nhất trong nhóm Tự lực văn đoàn. Văn của Thạch Lam rất tinh tế, và nồng hậu khiến độc giả cảm nhận được sự mộc mạc. Truyện ngắn của ông luôn giàu tính nhân văn, để lại bài học sâu sắc với bạn đọc.

Đôi nét về Thạch Lam

Nhà văn Đinh Hùng từng nhận xét về Thạch Lam: “Khiếu thưởng thúc món ăn của Thạch Lam rất tệ nhị, thận trọng và tinh vi trong việc từ lựa chọn miếng ăn, thức uống, từ món quà nhỏ mọn hương vị quê hương của đất nước.”

Cảm nhận về truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa

Thạch Lam đã từng nói: “Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly trong sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn.” Đúng vậy văn chương là thứ phải khiến cho người đọc cảm nhận được sự gần gũi của cuộc sống và hơn hết nó phải có chiều sâu nhất định.

Khi gió lạnh bắt đầu tràn về cũng là lúc chúng ta sắm cho mình những bộ quần áo thật ấm. Tuy nhiên với người nghèo thì họ không có nhiều tiền để nghĩ đến quần áo ấm hay mái nhà đủ ấm áp để họ vượt qua mùa đông. Thân phận của con người cũng chẳng khác gì cơn gió lạnh ấy, họ bị thổi đến tiêu điều. Người nghèo khi mùa đông đến họ chỉ có thể trải tạm ổ rơm để khắp nhà rồi nằm tạm, chứ không có một chiếc giường ấm như nhà khác. Những em bé thật đáng thương làm sao khi trời rét như vậy mà trên người vẫn mặc đồ phong phanh.

“Cái cảnh đau thương ấy làm tôi rơm rướm nước mắt. Một cảm giác nghẹn ngào đưa lên chẹn lấy cổ. Tôi lấy tờ giấy bạc năm đồng đưa cho người mẹ, rồi vội vàng bước ra cửa, để mặc hai người nhìn theo ngờ vực. Qua ngưỡng cửa, tôi va phải một người đàn ông ốm yếu tay cắp một cái áo quan con bằng gỗ mới. Đến bên đường, tôi thấy trong căn nhà lụp xụp đưa ra tiếng khóc của hai người đàn bà. Đứa bé con đã chết.”

Sự bất hạnh của một con người có lẽ chỉ đến đó thôi, khi cái đói, cái nghèo ập đến con người ta chẳng nghĩ được gì nữa ngoài việc làm thế nào để sống qua ngày. Trước sự khó khăn ấy những nhân vật trong truyện vẫn biết nghĩ cho người khác, chia sẻ và cảm thông cho hoàn cảnh khó khăn ấy. Gió lạnh đầu mùa dạy chúng ta biết cách đối nhân xử thế và phải biết yêu thương, chia sẻ khó khăn với mọi người xung quanh.

Cảm nhận về truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa

Mẹ Lê vì cái nghèo khổ mà phải đi xin ăn rồi bị người ta thả chó ra cắn đến chết, mẹ để lại 11 đứa con nhỏ giữa mùa đông giá rét ấy. Người chồng vũ phu bạo hành vợ, buông lời nói cay đắng khiến cuộc sống của người vợ không khác gì địa ngục cho đến khi chết mới thôi.

Khi nhắc về Thạch Lam, Nguyễn Tuân từng nói rằng: Lời văn Thạch Lam nhiều hình ảnh, nhiều tìm tòi, có một cách điệu thanh thản, bình dị và sâu sắc… Văn Thạch Lam đọng lại nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời. Xúc cảm của Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với tầng lớp dân nghèo thành thị và thôn quê…

Điều đặc biệt của Gió lạnh đầu mùa đó là Thạch Lam không chỉ viết ra những câu chuyện vô cùng chân thật về xã hội thời bấy giờ mà ông còn “sưởi ấm” những hoàn cảnh khó khăn ấy, bởi trong hoàn cảnh đói rét vậy mà có những đứa trẻ vẫn hiểu chuyện đến đáng thương, chúng nhường cho bạn mình chiếc áo.

Giữa những khó khăn bủa vây, cuộc sống càng thêm mệt mỏi bởi “cơm, áo, gạo, tiền” đè nặng trên họ. Truyện làm con người ta buồn đến nao lòng, nhưng cảnh làng quê hiện lên trong truyện được Thạch Lam miêu tả khiến chúng ta cảm thấy bình yên biết bao. Thạch Lam đã rất tài năng trong quá trình khám phá tâm hồn của nhân vật, mỗi bước chuyển biến trong hành động đều tinh tế. Và người đọc rất dễ để bắt gặp hình ảnh của mình trong truyện.

Trích đoạn hay trong truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa

Tôi rùng mình nghĩ đến số phận của anh xe khốn nạn. Ba đồng bạc phạt! Anh ta phải vay cai xe để nộp phạt; nhưng ba đồng bạc nợ ấy, bao giờ anh ta trả xong, sau những ngày nhịn đói, bị cai xe hành hạ, đánh đập vì thù hằn?

Tôi càng nghĩ đến bao nhiêu lại càng khinh bỉ tôi bấy nhiêu. Qua ô Yên Phụ, nhìn thấy những thợ thuyền tấp nập làm việc dưới ánh đèn trong những căn nhà lá lụp xụp, tôi rảo bước đi mau, hình như trông thấy tôi họ sẽ biết cái hành vi khốn nạn và nhỏ nhen đáng bỉ của tôi ban nãy.

Trích đoạn hay trong truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa

Những ngày hôm sau thực là những ngày khổ cho tôi. Lòng hối hận không để tôi yên. Hình như có một cái gì nặng nề đè nén trên ngực làm cho tôi khó thở, và lúc nào hình ảnh anh phu xe cũng hiển hiện ra trước mắt.

Tôi nhất định đem tiền đến cho người xe kia để chuộc tội lỗi của mình. Đến phố Hàng Bột hỏi dò những người chung quanh xưởng xe, tôi biết được anh xe bị phạt đêm hôm ấy là tên Dư, và trong một dãy nhà quá ngã tư Khâm Thiên.

Lời kết

Thạch Lam luôn là niềm tự hào to lớn của nền văn học Việt Nam. Ông có lối viết nhẹ nhàng, sâu lắm và các tác phẩm của ông cho đến ngày hôm nay vẫn được truyền tay cho rất nhiều bạn đọc. Độc giả ngưỡng mộ tài viết văn và ngưỡng mộ cả tâm hồn cao cả, con người của Thạch Lam.

Cảm ơn bạn đọc đã luôn quan tâm và theo dõi Văn học, hy vọng trong thời gian sắp tới chúng tôi vẫn sẽ nhận được sự ủng hộ từ bạn đọc. Chúc bạn đạt kết quả cao trong học tập!

Học Ngữ VănNgữ văn THPTTác giả - Tác phẩm

Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác nhà thơ Nguyễn Bính

864

Nguyễn Bính được xem là nhà thơ của lãng mạn và nhà thơ của làng quê. Những vầng thơ của ông mang lại cho người đọc nhiều suy ngẫm về cuộc đời và tình yêu. Hôm nay hãy cùng Văn học tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Nguyễn Bính nhé!

Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác nhà thơ Nguyễn Bính

1. Tiểu sử của Nguyễn Bính

Nguyễn Bính sinh năm 1918 và mất năm 1966, ông được sinh ra tại Nam Định. Khi Nguyễn Bính và sinh được 3 tháng thì mẹ mất.

Năm 1932, 1933 Nguyễn Bính có theo người bạn học ở thôn Vân lên Hồng Hỷ, Thái Nguyên để dạy học.

Bài thơ được đăng báo đầu tiên của Nguyễn Bính là bài thơ Cô hái mơ.

Năm 1937 Nguyễn Bính tham gia cuộc thi viết do nhóm Tự lực văn đoàn tổ chức với tác phẩm Tâm hồn tôi và đã giành được giải khuyến khích.

Từ năm 1940 trở đi Nguyễn Bính bắt đầu có tên tuổi trong sự nghiệp cầm bút của mình, với khá nhiều tác phẩm thơ hay và chất lượng từ câu từ đến nội dung truyền tải, thể loại ông viết chủ yếu là thơ tình.

Một thời gian sau đó nhờ mai mối của Lê Duẩn, Nguyễn Bính đã kết hôn với bà Nguyễn Hồng Châu là một cán bộ Việt Minh, ông cùng bà có một người con có tên là Nguyễn Bính Hồng Cầu. Sau đó, ông lại kết hôn với bà Mai Thị Mới cũng sinh được một đứa con gái được đặt tên là Nguyễn Hương Mai.

Năm 1954 theo Hiệp định Geneve, Nguyễn Bính cũng như bao cán bộ Việt Minh khác tập kết ra Bắc. Ông về công tác tại Nhà xuất bản Văn nghệ, sau đó ông làm chủ bút báo Trăm hoa.

Khi viết về Nguyễn Bính trong thời gian ông ở Nam Định, Chu Văn đã viết thế này:

“Nguyễn Bính về Nam Hà, tuổi gần năm mươi, gầy, đen, tóc cắt ngắn gần như trọc. Anh ăn mặc thật giản dị: một sơ mi nâu, một quần ka ki bạc màu, và đôi dép cao su. Toàn bộ hình thức ấy không gợi một vẻ gì một nhà thơ lớn trước – sau này người ta gọi là “thi nhân tiền chiến”. Anh cười đôi mắt nâu, sắc sảo, ánh hơi lạnh, và nụ cười khô, hàm răng ám khói thuốc lào.

Tiểu sử của Nguyễn Bính

2. Phong cách sáng tác của Nguyễn Bính

Khả năng sáng tác văn chương của Nguyễn Bính được bộc lộ khá sớm, năm 13 tuổi Nguyễn Bính đã giành giải nhất trong cuộc thi hát trống quân đầu xuân ở hội làng với sáng tác:

Anh đố em này:

Làng ta chưa vợ mấy người?

Chưa chồng mấy ả, em thời biết không

Đố ai đi khắp tây đông,

Làm sao kiếm nổi tấm chồng như chúng anh đây?

Làm sao như rượu mới say,

Như giăng mới mọc, như cây mới trồng?

Làm sao như vợ như chồng?

Làm sao cho thỏa má hồng răng đen

Làm sao cho tỏ hơi đèn?

Làm sao cho bút gần nghiên suốt đời?

Làm sao? Anh khen em tài?

Làm sao? Em đáp một lời làm sao…

Nguyễn Bính được mệnh danh là nhà thơ lãng mạn của làng quê Việt Nam. Có thể chia những tác phẩm của Nguyễn Bình ra làm hai dòng thơ khác nhau đó là lãng mạn và cách mạng.

Phong cách sáng tác của Nguyễn Bính

Nguyễn Bính không tô vẽ quá nhiều vào câu từ của mình, tất cả những bài thơ ông viết rất giản dị thế nhưng lại dễ đi vào lòng người. Sự mộc mạc và trau chuốt trong viết thơ giúp cho Nguyễn Bính có rất nhiều độc giả yêu mến. Hồn thơ lãng mạn của ông được lấy nguồn cảm hứng từ chính cuộc sống bên ngoài và đặc trưng đó là vùng nông thôn làng quê.

Bài thơ được nhiều người biết đến nhất của Nguyễn Bính đó là bài Tương tư, bài thơ “nói hộ lời” người đơn phương. Tình yêu đôi khi khiến cho chúng ta trở thành một người khác, nó là cảm xúc khó có thể diễn tả bằng lời nói. Đó là ngày hôm ấy, vô tình bắt gặp người ấy ở trên phố, chúng ta có chút rung động, vậy là nhớ thương người ta mỗi ngày. Sự nhớ nhung của một kẻ đơn phương ấy được Nguyễn Bính cẩn thận đưa vào từng câu từ khiến cho người đọc cảm giác rất xuyến xao.

“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,

Một người chín nhờ mười mong một người.

Gió mưa là bệnh của giời,

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.

Hai thôn chung lại một làng,

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?

Ngày qua ngày lại qua ngày,

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.

Bảo rằng cách trở đò giang,

Không sang là chẳng đường sang đã đành.

Nhưng đây cách một đầu đình,

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi.”

3. Tác phẩm tiêu biểu

Những bóng người trên sân ga, Tương tư, Chân quê, Tâm hồn tôi, Bóng giai nhân, Mười hai bến nước, Cô hái mơ, Qua nhà, Trả ta về, Gửi người vợ miền Nam,  Mây tần, Cô Son, Đêm sao sáng, Người lái đò sông Vỹ, Tình nghĩa đôi ta, Ông lão mài gươm, Đồng Tháp Mười, Người con gái ở lầu hoa, Chiến dịch mùa xuân, Nước giếng thơi, Tiếng trống đêm xuân,…

Trong đó có rất nhiều bài thơ đã được phổ nhạc như:

Cô gái hái mơ được Phạm Duy phổ nhạc

Cô lái đò được Nguyễn Đình Phúc phổ nhạc

Ghen được Trọng Khương phổ nhạc

Hôn nhau lần cuối được Văn Phụng phổ nhạc

Mưa xuân được Huy Thục phổ nhạc

Nụ tầm xuân được Phạm Duy phổ nhạc

Viếng hồn trinh nữ được Trịnh Lâm Ngân phổ thành ca khúc Hồn trinh nữ

Thời trước được Văn Phụng phổ nhạc thành bài Trăng sáng vườn chè

Thoi tơ được Đức Quỳnh phổ nhạc

Lỡ bước sang ngang được Song Ngọc phổ nhạc

Khúc hát chiều tà được Lã Văn Cường phổ nhạc

4. Nhận định về Nguyễn Bính

Thơ Nguyễn Bính thể hiện thế giới nội tâm sâu kín của con người bằng chính tiếng nói của con tim nhà thơ đang bùng cháy, người đã thuyết phục bạn đọc bằng những tình cảm chân thực vơi duyên thơ chân thực đậm đà.

Đã vào thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Bính, ta như được hít thở không khí êm dịu, thảnh thơi giữa những mảnh vườn làng, bến sông quê, cái náo nức của hội hè, đình đám, như cuộc sống cùng trái tim yêu đằm thắm, mộc mạc của các chàng trai làng, thôn nữ, cùng nỗi u buồn trầm lặng của những thân phận dang dở, lẻ loi. Hơn ai hết trong làng thơ mới lãng mạn, ngòi bút thi sĩ “chân quê” này đã tài tình khơi dậy cái hồn quê, tình quê vốn ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người Việt Nam.

Nhận định về Nguyễn Bính

Thơ Nguyễn Bính có “một điều quý vô ngần: hồn xưa của đất nước” – Hoài Thanh

Thơ Nguyễn Bính có “cái thi pháo trời cho những bậc thiên tài có tên gọi là tự nhiên như thở – Nguyễn Duy

Lời kết

Một đời người Nguyễn Bính dùng để cống hiến cho nghệ thuật, những tác phẩm của ông sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc. Qua bài viết trên chúng ta có thể tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp và phong cách sáng tác văn chương của Nguyễn Bính luôn có sự sáng tạo, rất đặc biệt và mang lại cảm giác mới mẻ với bạn đọc.

Cảm ơn bạn đọc đã luôn theo dõi và ủng hộ Văn học trong thời gian vừa qua. Hy vọng trong thời gian tới chúng tôi vẫn sẽ nhận được sự ủng hộ của các bạn. Chúc các bạn học tập thật tốt, đạt được nhiều thành tích cao trong môn Ngữ Văn.

Học Ngữ VănNgữ văn THCSTác giả - Tác phẩm

Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Hữu Thỉnh

863

Khi nhắc đến văn học nghệ thuật vào giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước, có rất nhiều cái tên nổi bật. Trong đó không thể nào không nhắc đến nhà thơ Hữu Thỉnh, ông là người có nhiều đóng góp to lớn cho nền văn học ở thời kì ấy.

Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Hữu Thỉnh

1. Tiểu sử của Hữu Thỉnh 

Hữu Thỉnh sinh năm 1942 tại Vĩnh Phúc. Sinh ra và lớn lên trong gia đình có truyền thống Nho học tuy nhiên cuộc sống của nhà thơ khá vất vả ngay từ khi còn bé. Ông có thời gian dài phải ở với bác ruột, khi 10 tuổi đã phải đi phu và làm rất nhiều công việc nặng nhọc vượt qua sức tưởng tượng của chúng ta khi ông ở độ tuổi quá nhỏ.

Đến sau năm 1954 Hữu Thỉnh mới được đến trường.

Năm 1963 ông tốt nghiệp và trở thành một người lính thuộc Trung đoàn 202. Đây là cơ hội để nhà thơ tham gia nhiều hoạt động khác nhau cũng như tham gia chiến đấu tại các chiến trường.

Năm 1975, Hữu Thỉnh học trường Viết văn Nguyễn Du.

Năm 1982, ông đảm nhiệm chức vụ bộ biên tập, Trưởng ban thơ, Phó tổng biên tập của Tạp chí Văn nghệ Quân đội.

Tiểu sử của Hữu Thỉnh 

Từ 1990 đến nay Hữu Thỉnh công tác tại Hội nhà văn Việt Nam.

Hữu Thỉnh đã xuất sắc khi lần lượt đảm nhiệm những vị trí vô cùng quan trọng đó là Phó Tổng Thư ký Thường trực Hội Nhà văn Việt Nam (nay là chức Phó Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam), Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam 3 lần, đồng thời kiêm nhiệm Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Khối Tư tưởng Văn hoá Trung ương, Bí thư Đảng ủy Đảng bộ Cơ quan Hội Nhà văn Việt Nam, Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam. Đại biểu Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (khoá X). Từ năm 2000, Hữu Thỉnh là Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam.

2. Phong cách sáng tác của Hữu Thỉnh

Hữu Thỉnh xuất phát từ phong trào văn nghệ quần chúng rồi sau đó mới trở thành một nhà văn. Tuy là một người có cuộc sống vất vả từ khi con nhỏ thế nhưng ông lại bén duyên với văn học khá sớm. Những tác phẩm xuất sắc của ông cho thấy được tâm hồn nghệ sĩ của ông. Hữu Thỉnh rất tỉ mỉ cho từng câu thơ của mình, khiến cho bạn đọc luôn cảm nhận được sự bình yên, sự lãng mạn trong thơ của ông.

Hữu Thỉnh là một người có kinh nghiệm sống phong phú chính vì thế trang viết của ông cũng như vậy. Ông viết về con người, về cuộc sống nơi thôn quê. Mỗi một tác phẩm của mình ông đều đặt tâm huyết rất lớn vào đó. Thơ của Hữu Thỉnh tuy giản dị nhưng lại vô cùng sâu sắc khiến cho người đọc nhớ mãi và rút ra được bài học cuộc sống.

Cách Hữu Thỉnh viết khiến cho độc giả đọc một lần là sẽ nhớ mãi, thơ của ông giàu tính sáng tạo, có trí tuệ và giúp cho người đọc nghiền ngẫm có cái nhìn sâu sắc về cuộc sống bên ngoài. Khi nhắc đến Hữu Thỉnh độc giả sẽ nhớ ngay đến nét chân quê của ông. Bởi quê hương giống như một sợi dây liên kết chúng ta lại với nhau, có ai đi xa mà không nhớ quê hương.

Đã có lần Hữu Thỉnh phát biểu: “Hiện thực chiến tranh, cuộc sống của người lính dội vào tôi mạnh đến mức vượt ra khỏi một thời đoạn, một đề tài. Nó thành một tâm thế.”

Phong cách sáng tác của Hữu Thỉnh

Nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của Hữu Thỉnh có bài thơ Sang Thu, hiện nay bài thơ Sang Thu được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 9. Bài thơ này được ông viết vào mùa thu năm 1977 đó là sau những tháng năm ông đi chiến trường. Và trong một khoảnh khắc bất chợt ông nhận ra vẻ đẹp của mùa thu và bắt đầu ngâm thơ.

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về.”

Sang thu như một bài thơ có câu từ dịu dàng, nhẹ nhàng với giọng thơ khiến cho chúng ta rung động trước vẻ đẹp ngất ngây của đất trời. Ngôn từ rất đỗi giản dị nhưng lại vô cùng tinh tế.

Sang thu là bức tranh mộc mạc về vùng quê Bắc Bộ, chỉ cần đọc thơ thôi người ta cũng đủ thấy được sự dịu dàng ấy. Tác giả đã tạo nên một Sang thu vô cùng đẹp, tinh tế và đủ làm con người ta say mê.

3. Tác phẩm tiêu biểu

Sang thu (thơ, 1977)

Âm vang chiến hào (in chung, 1976)

Đường tới thành phố (trường ca, 1979)

Tiếng hát trong rừng (thơ, 1985)

Từ chiến hào đến thành phố (trường ca, thơ ngắn, 1985)

Khi bé Hoa ra đời (thơ thiếu nhi, in chung)

Thư mùa đông (thơ, 1994)

Trường ca biển (trường ca, 1994)

Thơ Hữu Thỉnh (thơ tuyển, 1998)

Sức bền của đất (trường ca, 2004)

Thương lượng với thời gian (thơ, 2005)

Hoang dại dưới trời (thơ chọn, 2010)

Trăng Tân Trào (2016)

Ghi chú sau mây (thơ, 2020)

Văn xuôi: Đường lửa mùa xuân, Mưa xuân trên tháp pháo, Lý do của hi vọng, Bến văn và những vòng sóng.

4. Nhận định về Hữu Thỉnh

Hữu Thỉnh có cái may mắn là khá nhiều bài thơ và trường ca của anh qua sự thẩm định của thời gian vẫn có giá trị trương đối ổn định.

Hữu Thỉnh là thi sĩ của những câu thơ đầy ma lực, nó dẫn dắt độc giả thôi miên trên các thi liệu dân gian. Hành trình đổi mới thơ ông còn thể hiện ở việc đào sâu hơn nữa chất suy tư trước đây để tạo nên một kiểu kết tinh mới.

Hữu Thỉnh đã “ đưa thơ về với cuộc sống thường nhật”, khám phá bí ẩn thảm sâu trong tâm hồn con người bằng những suy tư chân thật tự đáy lòng mình.

Nhận định về Hữu Thỉnh

Thơ có hồn hay không, có phong phú đa nghĩa, đậm đà hay không trước hết là ở giọng. Cái giọng độc đáo nhà quê ấy đã tạo nên thần sắc thơ Hữu Thỉnh. – Nguyễn Trọng Tạo

Thơ Hữu Thỉnh nghiêng về những suy tư và dày đặc những câu hỏi. Đó là lí do khiến thơ Hữu Thỉnh mang cái nhìn chiêm nghiệm về cuộc đời. Mặt khác, đã từng trải qua cuộc chiến tranh gian khổ, ác liệt nên thơ Hữu Thỉnh là sự thăng hoa của kinh nghiệm sống, là sự ngân vọng của những kỉ niệm sâu sắc về một thời bom đạn. – Hà Thị Anh

5. Giải thưởng văn học của nhà thơ Hữu Thỉnh

Giải A, cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1975 – 1976 bài Chuyến đò đêm giáp ranh, Trường ca Sức bền của đất.

Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam 1980 với Trường ca Đường tới thành phố.

Giải thưởng Bộ Đại học, trung học chuyên nghiệp và Trung ương Đoàn (1991)

Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995 với tập thơ Thư mùa đông

Giải xuất sắc Bộ Quốc phòng năm 1994 với Trường ca biển

Giải thưởng Văn học ASEAN, 1999.

Giải thưởng Nhà nước về Văn học đợt I, 2001.

Cả cuộc đời nhà thơ Hữu Thỉnh cống hiến vì nền Văn học nước nhà, những đóng góp của ông có vai trò to lớn trong sự phát triển của Văn học nghệ thuật Việt Nam. Các tác phẩm của ông luôn chiếm trọn trái tim trong lòng độc giả. Dù đã đi qua lớp bụi của thời gian thế nhưng vì sự sâu sắc, tinh tế mà các tác phẩm ấy vẫn mang đến cho độc giả rất nhiều cảm xúc.

Học Ngữ VănNghị luận xã hộiNgữ văn THPT

Phân tích truyện ngắn Bức tranh của Nguyễn Minh Châu

1129

Nguyễn Minh Châu là một cây bút xuất sắc của nền Văn học Việt Nam sau thời kì năm 1875. Những sáng tác của Nguyễn Minh Châu đều hướng đến đề tài cuộc sống và con người. Không chỉ mang lại cho độc giả một tác phẩm đặc sắc, câu từ trau chuốt mà thông điệp của các tác phẩm ấy giúp cho độc giả thêm yêu quý nhà văn này. Nổi bật trong sự nghiệp viết văn của Nguyễn Minh Châu có truyện ngắn “Bức tranh”. Truyện ngắn để lại nhiều ấn tượng trong lòng bạn đọc.

Phân tích truyện ngắn Bức tranh của Nguyễn Minh Châu

Bức tranh xoay quanh hai nhân vật chính là đó là họa sĩ và người chiến sĩ. Anh họa sĩ có những trăn trở trong lòng về những khiếm khuyết của chính mình. Giống như những gì chúng ta trông thấy ở người khác, chỉ là vẻ bề ngoài, chỉ là thứ người khác muốn thể hiện cho ta xem còn sâu bên trong thì chẳng ai biết được. Câu chuyện góc tối phía sau ánh hào quang sẽ được hé lộ.

Người họa sĩ trong câu chuyện này là người nghệ sĩ thực thụ, anh có tài năng. Đặc biệt trong công việc anh luôn nghiêm túc, chỉn chu với những tác phẩm mình làm ra.

“Tôi là một họa sĩ, Tôi không phải là một người viết văn. Tôi phải tự giới thiệu như vậy ngay từ đầu, không hề có ý muốn mong chờ hay cầu khẩn nơi các bạn đọc một thái độ rộng lượng. Ngay từ đầu, tôi phải nói vậy để tự dặn mình, tự ra lệnh cho mình, tôi viết chuyện này ra đây là viết cho tôi, cho một bức tranh tôi vừa vẽ xong.”

Bức kí họa “Chiến sĩ giải phóng quân” của anh nhận được sự yêu mến từ rất nhiều người, vậy nên họ bắt đầu hỏi để được mua về trưng bày. Người họa sĩ tự biết bản thân mình vẫn còn rất nhiều điều thiếu sót cần được học hỏi. Khi người họa sĩ mang theo những bức họa của mình lên đường công tác thì không may anh bị trượt chân và bị thương, trong cái họa có cái may, anh đã được người chiến sĩ giúp đỡ.

“Người chiến sĩ thồ tranh cho tôi đang đi phía trước, cách một quãng khá xa, vội vã quay lộn lại. Nếu anh không đến kịp có lẽ là tôi bị dòng suối cuốn đi. Anh cởi chiếc ba lô sau lưng cho tôi, khoác vào trước ngực mình. Anh đỡ lấy tôi, giúp tôi rút cái chân lên. Rồi dìu tôi đi.”

Điều khiến bạn đọc bất ngờ, người chiến sĩ này chính là người bị họa sĩ từ chối khi anh chiến sĩ có nhờ họa sĩ vẽ cho một bức họa. Người họa sĩ lúc này cảm thấy mình có lỗi và gửi lời xin lỗi đến chiến sĩ: “Tôi xin lỗi đồng chí về cái việc hôm qua, đến mai thế nào tôi cũng vẽ cho đồng chí. Một bức thật đẹp!”.

người họa sĩ tài năng đã hoàn thành bức vẽ người chiến sĩ thồ trong nửa tiếng đồng hồ

Vậy là trong đêm đó, người họa sĩ tài năng đã hoàn thành bức vẽ người chiến sĩ thồ trong nửa tiếng đồng hồ. Người họa sĩ tự ý thức được rằng bản thân không thể chậm chạp vì cả hai đều phải cùng đoàn lên đường để đi chặng tiếp theo. “Cả hai chúng tôi đều vội, đến nỗi anh cũng chẳng kịp viết thư mà chỉ kịp ghi cho tôi cái địa chỉ. Rồi hai chúng tôi chia tay nhau.”

Nhờ sự tài năng ấy, sau này bực họa truyền thần kia nổi tiếng không chỉ ở trong nước mà còn ra đến nước ngoài. Có lẽ vì tấm lòng của người họa sĩ đặt trong bức tranh ấy rất nhiều thế nên người xem có thể cảm nhận được ý nghĩa đặc biệt của bức tranh ấy.

Khi ấy trong lòng người họa sĩ ngập tràn sự nhiệt huyết, anh nghĩ rằng khi mình trở về sẽ mang bức tranh trao tận tay cho người chiến sĩ như lời đã hứa. Thế nhưng sau khi về anh bị công việc, cuộc sống “làm phiền” nhiều đến mức anh bị cuống vào vòng xoáy ấy lúc này không hay. Và rồi người họa sĩ đã không giữ đúng lời hứa của mình là sẽ mang tranh đến cho người chiến sĩ ấy.

Và rồi cuộc gặp gỡ tình cờ của người họa sĩ và anh chiến sĩ tại tiệm cắt tóc. Cuộc gặp gỡ này chính là mở đầu cho hành trình dằn vặt lương tâm của người họa sĩ kia. Người họa sĩ nhận ra vì sự vô tâm của mình đã khiến cho người chiến sĩ kia phải chịu đựng nỗi đau đó là người mẹ vì thương nhớ con đã mù hai đôi mắt.

Cuộc gặp gỡ này chính là mở đầu cho hành trình dằn vặt lương tâm của người họa sĩ kia

Lúc đầu người họa sĩ vẫn nghĩ rằng do mình có công việc bận nên mình bị lãng quên, anh suy nghĩ đủ mọi lý do tuy nhiên trong lòng anh vẫn dằn vặt. “Tại sao ngày ấy tôi đã không đưa tấm ảnh đến cho gia đình anh? Tại sao tôi không giữ lời hứa? Mà tôi vẫn còn nhớ, tôi đã hứa với anh và cả với tôi nữa, đinh ninh và hùng hồn lắm, và cũng thực tâm lắm chứ?”

Sau rất nhiều lần đấu tranh tâm lý, cuối cùng anh họa sĩ cũng chịu nói lời xin lỗi với người chiến sĩ: “Tôi xin nhận đã gây thêm đau khổ cho bà mẹ anh. Tôi đã lừa dối anh. Tôi thu thêm được nhiều tiền của và tiếng tăm trên sự đau khổ của anh.” Sự thừa nhận lỗi lầm ấy không chỉ khiến cho bản thân người họa sĩ thấy nhẹ nhõm mà người chiến sĩ kia cũng được an ủi đôi phần.

Nhân vật người chiến sĩ khiến bạn đọc không khỏi bất ngờ trước thái độ của mình, ban đầu khi bị từ chối vẽ tranh người chiến sĩ vẫn bình thản, sau khi biết được người họa sĩ không mang tranh đến nhà như lời đã hứa anh không một lời trách móc người họa sĩ kia, anh vẫn cắt tóc và nói chuyện với họa sĩ một cách bình tĩnh nhất. Có thể nói tấm lòng bao dung của người chiến sĩ ấy giúp người họa sĩ tự biết sai lầm của mình để sửa chữa.

Trong cuộc sống chúng ta sẽ không tránh khỏi những lần sai lầm, thế nhưng sai rồi phải biết sửa, sai phải biết cúi đầu nhận lỗi đó mới gọi là dũng cảm. Hy vọng tác phẩm “Bức tranh” sẽ giúp bạn nhận ra điều đó, học cách bao dung, học cách nhận lỗi khi mắc sai lầm. Con người chẳng có ai là hoàn hảo cả, chúng ta học hỏi từ những sai lầm của chính mình. Và đôi khi bài học cuộc sống đến từ những điều chúng ta không bao giờ ngờ đến. Học hỏi, hoàn thiện bản thân mỗi ngày là điều chúng ta phải làm.

Con người chẳng có ai là hoàn hảo cả, chúng ta học hỏi từ những sai lầm của chính mình.

“Phải, giá thử lần thứ nhất tôi đến, hoặc lần thứ hai tôi trở lại, và các lần sau nữa, mà người thợ ấy nổi giận đuổi tôi ra khỏi ngôi quán, thì chắc chắn tôi không đủ thì giờ nhìn kỹ cái mặt mình để như thế. Gần nửa năm, tôi đã để vào bức tranh sơn mài tất cả công sức và sự suy nghĩ, và trong suốt thời gian ấy, một đôi lần tôi cũng gợi lại chuyện cũ nhưng nguwoif thợ vẫn một mực cố tỏ ra chưa hề bao giờ quen biết tôi. Trở về làm một anh thợ cắt tóc cũng như lúc ở bộ đội, anh vẫn lẳng lặng sống như vậy để cho người chung quanh tự phán xét lấy những công việc đã làm. Lời đề nghị rụt rè của anh: Xin mọi người hãy tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn, để tự suy nghĩ về chính mình.”

Học Ngữ VănNghị luận xã hội

Bài văn dẫn chứng nghị luận xã hội về BTS trên mạng xã hội

856

Hiện nay nhóm nhạc Hàn Quốc BTS là một trong những nhóm nhạc nhận được sự ủng hộ đông đảo từ khán giả, không chỉ hoạt động trong nước mà toàn cầu đây được xem là nhóm nhạc nam thành công về sự lan tỏa ở thị trường Kpop Hàn Quốc. Ở bài viết này chúng ta sẽ cùng phân tích sự thành công của nhóm nhạc đình đám này và VanHoc.Net sẽ giúp bạn khai thác chủ đề để dẫn chứng nghị luận xã hội về nhóm nhạc BTS.

Bài văn dẫn chứng nghị luận xã hội về BTS trên mạng xã hội

Dẫn chứng nghị luận xã hội về BTS đối với giới trẻ ngày này

Có thể nói BTS không chỉ là một nhóm nhạc thần tượng tại xứ sở Kim Chi mà BTS được coi là biểu tượng văn hóa Hàn Quốc. Chính nhờ sự thành công vượt trội của nhóm nhạc này mà Hàn Quốc được biết đến là một điểm du lịch thú vị cùng với văn hóa thần tượng vô cùng phát triển. BTS không chỉ mang đến cho khán giả những bài hát của giai điệu vui vẻ mà BTS còn thức đẩy nền kinh tế của nước nhà phát triển thông qua những bài hát, hoạt động quảng bá hình ảnh và đất nước của mình đến với bạn bè quốc tế.

BTS là hình mẫu lý tưởng của rất nhiều người trẻ vì họ dám theo đuổi ước mơ của mình và gặt hái được thành công vang dội. Những câu chuyện về các thành viên trong nhóm mang lại năng lượng tích cực cho người trẻ. Đặc biệt những thói quen, lối sống của các thành viên dường như trở thành “xu hướng” với người trẻ.

Điều đặc biệt ở BTS đó là họ không chỉ giỏi hát, nhảy, sáng tác mà các thành viên trong nhóm còn thảo luận rất nhiều vấn đề nhạy cảm, ít người dám lên tiếng. Những lần tranh luận về các vấn đề nhạy cảm như bạo lực học đường hay chống lại sự bất công của xã hội giúp thay đổi cuộc sống của nhiều người trẻ.

BTS và người hâm mộ của mình

Mối quan hệ giữa thần tượng và fan luôn là chủ đề được bàn tán xôn xao, đặc biệt là với xã hội ngày một phát triển. Rất nhiều nền tảng mạng xã hội được ra đời giúp chúng ta dễ dàng tìm hiểu về thần tượng thông qua một chiếc điện thoại.

Trước khi trở thành nhóm nhạc đình đám nhận được sự ủng hộ từ đông đảo cộng đồng người hâm mộ. BTS đã từng là nhóm nhạc không ai biết đến, ngoài sự nỗ lực bền bỉ ra các thành viên còn phải đối diện với rất nhiều khó khăn khác nhau. Khi gặp phải những rắc rối liên quan đến truyền thông nhóm nhạc này đều phải tự mình bảo vệ chính mình.

BTS và người hâm mộ của mình

Một thần tượng phải đối diện với rất nhiều áp lực khác nhau. Chính vì áp lực mà nhiều người không chịu được phải chọn cách tiêu cực nhất đó là rời bỏ thế giới này. Những điều này đủ để thấy BTS đã chịu đựng những khó khăn như thế nào? Và đồng hành trên chặng đường trở thành thần tượng toàn cầu ấy BTS có rất nhiều người hâm mộ luôn ủng hộ nhóm nhạc.

Trong mỗi buổi lưu diễn nhóm nhạc đều gửi lời cảm ơn đến người hâm mộ, họ luôn tỏ thái độ biết ơn với người hâm mộ của mình. Chính nhờ có sự đồng hành của người hâm mộ mà nhóm nhạc lại có thêm động lực để tiếp tục truyền tải năng lượng tích cực đến với mọi người, thực hiện điều mà họ mong muốn.

Dẫn chứng BTS vào văn nghị luận xã hội ước mơ

Ai cũng có trong mình một ước mơ, dù lớn hay nhỏ nó đều đáng được trân trọng. Tuy nhiên, nếu bạn có ước mơ lớn thường sẽ nhận lại ánh mắt lạ lùng, sự cười đùa của những người xung quanh. Bởi họ không tin một người nhỏ bé như bạn lại có thể thực hiện ước mơ to lớn như thế.

Hãy nhìn xem ngày trước BTS cũng là những chàng trai trẻ với nhiều khát vọng. Thời gian đầu vừa mới ra mắt công chúng BTS không có nhiều người hâm mộ, chính vì thế nhóm nhạc này đã gặp rất nhiều khó khăn khác nhau. Tuy nhiên không vì khó khăn đó mà BTS bỏ cuộc, họ ngày đêm miệt mài tập luyện và cho đến khi họ gặt hái được thành công vang dội. Sự nổi tiếng của nhóm nhạc này đã truyền cảm hứng cho người trẻ.

Dẫn chứng BTS vào văn nghị luận xã hội ước mơ

Nếu bạn có ước mơ hãy thực hiện ước mơ của mình, nếu một năm chưa thành công thì chúng ta cố gắng hai năm, hai năm chưa được thì ba, bốn năm. Ước mơ muốn thực hiện phải nỗ lực mỗi ngày. Hy vọng bạn hiểu được rằng, nếu không nỗ lực thì ước mơ sẽ mãi mãi là ước mơ.

Tuổi trẻ chúng ta có thời gian, năng lực vậy thì dại gì mà không một lần cố gắng hết mình, giành lấy thứ bạn muốn. Chỉ sợ chúng ta không có thời gian để làm, còn tuổi trẻ có vô vàn điều thú vị đang đợi bạn khám phá. BTS đã truyền lửa cho không ít người trẻ trở thành phiên bản dũng cảm, vượt qua định kiến xã hội để làm điều mình mơ ước. Và hy vọng bạn có thể trở thành một người như thế, không ngần ngại nỗ lực và làm thứ mình thích!

Những câu nói truyền cảm hứng của BTS

1/ Thậm chí khi cậu thấy rằng bản thân không hoàn hảo nhưng cậu đừng quên rằng bản thân cậu là một phiên bản giới hạn và chẳng ai có thể thay thế cậu. – Trưởng nhóm RM

2/ Trước khi yêu một ai khác, cậu cần học cách yêu lấy bản thân mình trước. – Jin

3/ Đừng bận tâm đến mọi thứ xung quanh. Hãy tiếp tục chạy, ngay cả khi đó là con đường chỉ toàn chông gai. – Suga

4/ Nếu bạn không làm việc chăm chỉ, bạn sẽ không thể có kết quả tốt. – J-hope

5/ Tiếp tục hướng về phía trước và theo đuổi mục tiêu của bạn, như thể bạn chỉ còn một ngày duy nhất để sống. – Jimin

6/ Hãy quên những gì đã làm tổn thương bạn, nhưng đừng quên những gì nó đã dạy bạn. – V

Những câu nói truyền cảm hứng của BTS

7/ Khi mọi thứ trở nên quá đỗi khó khăn, hãy dừng lại một chút và nhìn xem cậu đã đi xa đến nhường nào. Đừng quên đi điều đáng quý đó. Cậu là bông hoa duy nhất và đẹp nhất, hơn bất cứ ai trên thế giới này. – V

8/ Một ngày nào đó, bạn sẽ hối hận vì những gì mình không làm. – Jungkook

9/ Mọi ước mơ của chúng ta đều có thể trở thành hiện thực, nếu ta đủ can đảm và kiên trì với nó. – Jungkook

10/ Chẳng sao cả khi bạn không có ước mơ, không có ước mơ cũng không sao. Chỉ cần bạn hạnh phúc – Suga

11/ Đừng bận tâm đến mọi thứ xung quanh. Hãy tiếp tục chạy, ngay cả khi đó là con đường chỉ toàn chông gai. – Suga

12/ Mọi việc sẽ mãi trở nên tồi tệ khi cậu nghĩ tiêu cực. Nhưng mọi chuyện sẽ trở nên tươi tắn hơn khi cậu nghĩ tích cực đôi chút. – Jin

13/ Cuộc sống là một tác phẩm điêu khắc diệu kỳ và cậu chính là người đúc kết mỗi khi cậu mắc sai lầm và học hỏi từ chúng.

Học Ngữ VănNghị luận xã hội

Nghị luận xã hội về câu nói Không có áp lực, không có kim cương

703

Kim cương là một trong những món đồ có giá trị rất lớn và trước khi trở thành viên kim cương sáng giá thì nó đã phải trả qua quá trình dài mài dũa. Thành công của chúng ta cũng vậy, trước khi đi đến đỉnh vinh quang con người ai cũng phải trải qua những khó khăn, mệt mỏi. Và câu nói “Không có áp lực, không có kim cương” tạo động lực giúp chúng ta không ngừng nỗ lực.

Nghị luận xã hội về câu nói Không có áp lực, không có kim cương

Áp lực có nhiều dạng khác nhau, có người áp lực kinh tế cũng có người áp lực về tinh thần. Điểm chung của áp lực đó là khiến con người cảm thấy mệt mỏi, không có động lực để tiếp tục nỗ lực. Kim cương được xem là một trong những vật có giá trị ở thời điểm hiện tại, tuy nhiên để có được một viên kim cương đẹp mắt cho người xem thì nó cần trải qua rất nhiều bước khác nhau, cũng như những người sở hữu kim cương họ là người giàu có. Mượn hình ảnh kim cương để nói về sự nỗ lực. “Không có áp lực, không có kim cương” với thông điệp hy vọng mỗi chúng ta đều không ngừng nỗ lực, tiến về phía trước.

Cuộc sống này không phải lúc nào cũng vui vẻ và diễn ra giống như cái cách mà chúng ta vẫn hằng mong ước. Có thể hôm nay bạn học bài rất kĩ nhưng vẫn không đạt được số điểm mà bạn mong muốn, điều này khiến bạn nản chí, cảm thấy bao công sức bỏ ra của mình không thu lại kết quả. Thế nhưng nếu vì điều đó mà lần sau bạn không học bài kĩ, kết quả bài thi của bạn chắc chắn sẽ thấp. Khó khăn đến không phải để bạn bỏ cuộc mà khó khăn đến để thử thách lòng kiên trì của bạn. Một người học sinh như chúng ta không thể bỏ cuộc, đôi khi việc bị điểm thấp là do chúng ta không học đúng phương pháp vậy nên thay vì nản chí hãy nhìn lại quá trình học của bản thân, phương pháp học của bạn đã có hiệu quả hay chưa? Thay vì đổ lỗi cho hoàn cảnh, than trách ông trời bất công hãy nhìn lại bản thân mình.

Cuộc sống này không phải lúc nào cũng vui vẻ và diễn ra giống như cái cách mà chúng ta vẫn hằng mong ước.

Cha đẻ của Apple Steve Jobs và quá khứ nghèo khổ ít người biết đến. Trước khi trở thành ông chủ của đế chế Apple, Steve Jobs đã phải trải qua rất nhiều khó khăn và gian khổ. Khi còn học cấp 2, ông thường xuyên bị bạn bè bắt nạt vì quá thông minh. Steve Job được nhận vào trường đại học ở Portland, thế nhưng ông phải bỏ học giữa chừng vì bố mẹ không đủ tiền trả học phí. Có rất nhiều thời điểm, Steve Jobs không có nổi một xu dính túi, ông phải bán vỏ chai Coca – Cola để có tiền mua thức ăn, sống qua ngày hay những lần phải đi bộ rất xa chỉ để nhận thức ăn miễn phí. Từ cuộc sống nghèo khổ và trở thành một người có ảnh hưởng trên thế giới quả không phải điều dễ dàng. Nhưng không vì hoàn cảnh nghèo khó mà Steve Jobs phó thác cho số phận, mỗi ngày ông đều nỗ lực rất nhiều. Và sau bao tháng ngày không ngừng cố gắng ông đã gặt hái được thành công vang dội. Thành công của Steve Jobs khiến cho cả thế giới phải trầm trồ, phải ngưỡng mộ và cho đến thời điểm hiện tại Apple vẫn đang thống trị thế giới, số người dùng sản phẩm của thương hiệu này vẫn đang chiếm phần lớn.

Thực tế đáng buồn, bên cạnh những người luôn nỗ lực để vượt qua nghịch cảnh thì có không ít người trẻ ngoài kia khi gặp khó khăn chỉ biết chạy trốn, không tìm cách khắc phục vấn đề. Một bộ phận bạn trẻ ngày nay chỉ thích hưởng thụ mà không biết cố gắng, họ dành rất nhiều thời gian để đi chơi, nằm ở nhà nghịch điện thoại nhưng không dành thời gian để nỗ lực, để học hỏi thêm kinh nghiệm. Và khi khó khăn đến, vì thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm nên họ nản chí và nhanh chóng bỏ cuộc. Những người trẻ này không cho mình cơ hội để nỗ lực, để thành công. Chúng ta cần lên án những người có lối sống tiêu cực, không chịu nỗ lực.

có không ít người trẻ ngoài kia khi gặp khó khăn chỉ biết chạy trốn.

Trong cuốn sách “Bạn chỉ tưởng là mình đang rất cố gắng” Lý Thượng Long có viết một đoạn như thế này:

“Những người ngày nào cũng ở nhà ngủ vùi mãi mãi không thể biết được những người chạy bộ trên máy có một niềm vui khác. Những người đang chạy, luôn cảm thấy thế giới này vận động, năng lượng tích cực và cảm giác an toàn khá giống nhau, đều là do bản thân mình mà ra. Những người ngày nào cũng hừng hực sống và làm việc kia không phải trời sinh ra đã khác người, mà chỉ vì họ luôn sống với một trái tim ham học hỏi và theo đuổi cái mới mà thôi.”

Nếu chỉ ở nhà ngủ nướng, đi làm cho có, không nỗ lực để phát triển bản thân thì thế giới bạn nhìn thấy sẽ vô cùng nhỏ bé. Bạn làm gì cũng chẳng có động lực, bởi năng lượng tích cực muốn duy trì thì chúng ta phải vận động, phải làm việc hằng ngày. Người khác có thể ở nhà ngủ nướng, người khác có thể lười biếng. Còn bạn nhất định phải kỷ luật bản thân mình, muốn thành công phải chịu gian khổ. Muốn ngày mai tốt đẹp hơn hôm nay phải học bài, làm việc chăm chỉ.

Nếu chỉ ở nhà ngủ nướng, đi làm cho có, không nỗ lực để phát triển bản thân thì thế giới bạn nhìn thấy sẽ vô cùng nhỏ bé.

Lười biếng, sống dựa dẫm, không dám đối mặt với khó khăn sẽ khiến cho chúng ta ngày càng trì hoãn, làm gì cũng không nên hồn. Mỗi người cần nhìn thẳng vào thực tế, đối diện để biết được mình đang thiếu sót những vấn đề nào, khắc phục vấn đề để tương lai tươi sáng hơn. Người trẻ như chúng ta không thể lười biếng, làm gì cũng phải kiên trì. Nếu nhanh chóng bỏ cuộc, chúng ta sẽ nhận về sự thất bại.

Chúng ta đang là học sinh ngồi trên ghế nhà trường, được xem là những chủ nhân tương lai của đất nước. Mỗi người cần có ý thức học tập, không ngừng trau dồi tri thức, tu dưỡng đạo đức và trở thành một học sinh chăm ngoan. Đặc biệt khi đứng trước thử thách không được nản lòng, kiên trì học tập, phá bỏ vùng an toàn. Kiên trì theo đuổi, đam mê sẽ theo đuổi bạn.

Áp lực khiến chúng ta mệt mỏi, áp lực khiến chúng ta kiệt sức. Nếu mệt mỏi hãy để bản thân được nghỉ ngơi, sau đó đứng dậy, làm việc chăm chỉ hơn. Áp lực là thứ không thể tránh khỏi bởi muốn thành công chúng ta phải tập làm quen với khó khăn ấy. Hãy biến giấc mơ của bạn thành hiện thực, nhìn vào thực tế xem bản thân mình đang cần gì.

Muốn thành công chúng ta phải nỗ lực, không có ai là ngoại lệ. Khó khăn có thể tìm đến, nhưng đó chỉ là thử thách, điều quan trọng là bạn cần phải dũng cảm vượt qua. Chúng ta phải từng ngày rèn dũa bản thân để tương lai có thể trở thành viên kim cương tỏa sáng. Hy vọng tất cả chúng ta đều biến khó khăn thành động lực để vượt khó!

Học Ngữ VănTác giả - Tác phẩm

Tiểu sử và cuộc đời của nhà văn Nguyễn Công Hoan

825

Nhắc đến Nguyễn Công Hoan là chúng ta nhớ đến bậc thầy truyện ngắn, những tác phẩm của ông mang tính chấm biêm sâu cay khiến người đọc có ấn tượng sâu sắc. Ngày hôm nay hãy cùng Văn học khám phá về tiểu sử và cuộc đời của nhà văn Nguyễn Công Hoan nhé!

Tiểu sử và cuộc đời của nhà văn Nguyễn Công Hoan

1. Tiểu sử của nhà văn Nguyễn Công Hoan

Nguyễn Công Hoan sinh năm 1903 tại Hưng Yên và mất năm 1977 tại Hà Nội. Ông được biết đến là một nhà văn, nhà báo và thành viên của Hội nhà văn Việt Nam.

Nguyễn Công Hoan sinh ra trong một gia đình Nho học thất thế. Chính vì thế khi còn bé Nguyễn Công Hoan đã được tiếp thu rất nhiều những câu thơ, câu văn mang tính chất châm biếm các tầng lớp, quan lại cường hào bắt dân nghèo. Và sau này khi đi theo sự nghiệp văn chương, Nguyễn Công Hoan chuyên viết về thể loại châm biếm sâu cay.

Năm 1926, sau khi tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, Nguyễn Công Hoan đã đi dạy học ở rất nhiều nơi khác nhau. Mãi cho đến khi Cách mạng tháng 8 bùng nổ ông mới viết tác phẩm đầu tay có tên là Kiếp hồng nhan.

Sau Cách mạng tháng 8 sự nghiệp văn chương của Nguyễn Công Hoan bước sang trang mới khi ông giữ những vị trí quan trọng như, Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ.

Năm 1951 Nguyễn Công Hoan làm việc tại Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và Sách sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ chín năm.

Từ sau năm 1954, Nguyễn Công Hoan trở về với cương vị chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam.

Ngày 6 tháng 6 năm 1977 Nguyễn Công Hoan mất tại Hà Nội.

Tiểu sử của nhà văn Nguyễn Công Hoan

2. Phong cách sáng tác của nhà văn Nguyễn Công Hoan

Đọc tác phẩm của Nguyễn Công Hoan độc giả sẽ thấy được cái châm biếm sâu cay của ông như thế nào. Cái cười trong truyện là tiếng cười đau khổ của những kiếp người lầm than, thấp cổ bé họng.

Nguyễn Công Hoan cho rằng khi viết chúng ta cần phải đề cao về nội dung truyền tải chính vì thế mà những tác phẩm của ông luôn giàu tính nhân văn, mỗi tác phẩm đều có sự sáng tạo riêng biệt.

Trong cuốn sách Đời viết văn, Nguyễn Công Hoan từng chia sẻ: “Tôi đặt nhiều công phu vào việc viết truyện ngắn, chứ không phải vào việc viết truyện dài. Tôi chỉ viết truyện dài khi nào tôi lười đi tìm đề tài để viết truyện ngắn.”

Có lẽ truyện ngắn Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan là truyện ngắn nổi bật nhất trong sự nghiệp cầm bút của ông. Bước đường cùng viết về cuộc đời đầy bi kịch của vợ chồng anh Pha. Vì không có nhiều sự hiểu biết nên vợ chồng anh Pha đã bị địa chủ dùng nhiều thủ đoạn để cướp đoạt ruộng đất và nhà cửa. Sự bóc lột trắng trợn và lòng tham vô đáy của tên địa chủ đã khiến anh Pha không còn là một chàng nông dân hiền lành chất phát nữa. Hành động anh Pha phang một cú giáng vào đầu Nghị Lại thể hiện sự bức xúc đến đỉnh điểm của anh. Hình ảnh cuối truyện khi anh Pha bị trói, anh nhắm mắt, nghiến răng rơi nước mắt thể hiện lực bất tòng tâm trước thời cuộc. Truyện ngắn Bước đường cùng phản ánh rất chân thật đời sống của những người nông dân nghèo ở xã hội phong kiến, họ bị quan lại áp bức, bóc lột nặng nề. Thế nhưng chẳng ai giúp người nông dân nghèo thoát cảnh ấy, họ chỉ biết cắn răng chịu đựng vì không dám đối đầu với quan lại.

“Thế nào là bướng? Tôi không bướng. Tôi chỉ muốn có lẽ phải. Bọn cầm quyền cứ thấy ai hiểu lẽ phải, ngăn cản không cho họ làm bậy, thì bảo là bướng. Thế hãy hỏi quan, lính trên huyện ăn lương để ngồi không à? Sao động có việc gì bắt họ phải làm thì mình lại cứ tống tiền vào cho họ hư quen đi. Là tại mình ngu, cho nên họ mới bắt nạt mình được.”

Phong cách sáng tác của nhà văn Nguyễn Công Hoan

3. Tác phẩm tiêu biểu

Nguyễn Công Hoan để lại một gia tài lớn tác phẩm văn học với hơn 200 truyện ngắn, 30 truyện dài và nhiều tiểu luận văn học.

Một số tác phẩm trong đó có:

Người ngựa, ngựa người, Kép Tư Bền, Thật là phúc, Hai thằng khốn nạn, Bước đường cùng, Tinh thần thể dục, Nông dân và địa chủ, Tranh tối tranh sáng, Thế là mợ nó đi tây, Xin chữ cụ nghè, Tắt lửa lòng, Đồng hào có ma, Hỗn canh hỗn cư, Đống rác cũ, Đời viết văn của tôi, Phành phạch, Cô làm công, Người cặp rằng hầm xay lúa ở ngục Côn Lôn 1930, Tuyển tập Nguyễn Công Hoan, Nông dân và địa chủ, Cô giáo Minh,…

4. Nhận định về Nguyễn Công Hoan

Nói đến Nguyễn Công Hoan trước hết là nói đến một bậc thầy truyện ngắn trong Văn học Việt Nam hiện đại. Thế giới truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đa dạng, phong phú như một “bách khoa thư”, một “tấn trò đời” mà đặc trưng là xã hội phong kiến của thực dân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan có nhiều nét gần với truyện cười dân gian, tiếp thu được truyền thống lạc quan của nhân dân muốn dùng tiếng cười như một “vũ khí của người mạnh” để tống tiễn cái lạc hậu, cái xấu xa vào dĩ vãng. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan với đặc điểm của nó đã nâng cao khả năng nhận thức và khám phá các hiện tượng xã hội phức tạp. Chúng ta có quyền tự hào về Nguyễn Công Hoan và coi ông là bậc thầy truyện ngắn. Nguyễn Công Hoan là nhà văn có công khai phá, mở đường cho chủ nghĩa hiện thực trong Văn học Việt Nam thời kỳ hiện đại. Nguyễn Công Hoan đã đột phá vào những thành trì, khuôn khổ của giáo huấn và tiếp nhận, tuân theo một chủ nghĩa khách quan lịch sử khi miêu tả hiện thực. Giới nghiên cứu văn học khi bàn đến sự hình thành chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam đều nhất trí đánh giá cao vai trò, vị trí của Nguyễn Công Hoan, người có những tác phẩm được coi là “cổ điển” trong nền văn học hiện dại. – Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam.

Nguyễn Công Hoan cũng đã sống ở nông thôn trong nhiều năm, ông chịu khó quan sát nên có nhiều hiểu biết về nông thôn. Ông sáng tác nhiều truyện về đề tài này. – Lê Thị Đức Hạnh

Cái cười của Nguyễn Công Hoan là một phương tiện đả kích… có sức công phá thật mạnh mẽ. Đôi lúc ta còn bất chợt thấy trong cái cười hài hước của ông một chút ngậm ngùi, một tình tương có thể nói là kín đáo. – Nguyễn Huệ Chi, Phong Lê

Truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan là hiện tượng chưa có tới hai lần trong văn học Việt Nam. – Nguyễn Hoành Khung.

Lời kết

Dành cả cuộc đời của mình để tận hiến cho sự nghiệp văn học nước nhà Nguyễn Công Hoan xứng đáng trở thành một trong những nhà văn nổi tiếng tại Việt Nam. Qua bao nhiêu thế hệ, những tác phẩm của ông vẫn luôn để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc.

Cảm ơn bạn đọc đã dành thời gian quan tâm và đọc những bài viết tại Văn học. Hy vọng trong thời gian sắp tới chúng tôi vẫn sẽ tiếp tục nhận được sự ủng hộ từ độc giả.